Ngô Quyền Và Chiến Thắng Bạch Đằng Năm 938
Sau trận đại thắng lừng danh kim cổ trên sông Bạch Đằng, đập tan quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên ngôi vua, mở ra thời kỳ trung hưng rực rỡ của dân tộc. Bởi vậy, Ngô Quyền được giới sử gia xếp là người đứng đầu trong các bậc vua chúa ở Việt Nam xưa kia.
Bạn đang xem: Ngô Quyền Và Chiến Thắng Bạch Đằng Năm 938

Ngô Quyền(chữ Hán:吳權;12 tháng 3năm898–14 tháng 2năm944), còn được biết đến với tên gọiTiền Ngô Vương(前吳王) hoặcNgô Vũ Vương, là vị vua đầu tiên củanhà Ngôtronglịch sử Việt Nam. Năm938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quânNam Hántrongtrận Bạch Đằng, chính thức kết thúc gần một ngàn nămBắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài củaViệt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, lập ranhà Ngô, trị vì từ năm939đến năm944.
Ngô Quyền nằm trong danh sách mười bốnanh hùng dân tộc Việt Nam.Phan Bội Châuxem ông làvị Tổ Trung hưngcủa Việt Nam.
Xuất thân
Sinh năm898trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng". Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Tĩnh Hải quân đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họKhúcở phủ thànhĐại Lavào năm905và họDươngvào năm931. Sau khi trở thành con rể choDương Đình Nghệ, ông được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm937, hào trưởng đấtPhong ChâulàKiều Công Tiễnsát hạiDương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kìTự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập,Kiều Công Tiễnvội vã cầu cứu nhàNam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quânNam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sôngBạch Đằngvào năm938đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lượcTĩnh Hải quâncủa nhàNam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kìBắc thuộccủaViệt Nam. Năm939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ởCổ Loa, lập ranhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm965.
Trận Bạch Đằng
Bối cảnh
Năm 931,Dương Đình Nghệđánh đuổi quânNam Hán– một trong 10 nước thờiNgũ đại Thập quốcnằm liền kề với Tĩnh Hải quân – giành lại quyền tự chủ cho người Việt ở Tĩnh Hải quân, tự xưng làTiết độ sứ.
Năm937, Đình Nghệ bị nha tướngKiều Công Tiễngiết hại để cướp ngôiTiết độ sứ. Con rể và là một tướng khác của Đình Nghệ làNgô Quyềnbèn tập hợp lực lượng ra đánh Công Tiễn để trị tội phản chủ. Kiều Công Tiễn sợ hãi, bèn sai người sang cầu cứuNam Hán. Vua Nam Hán làLưu Nghiễmnhân cơ hội đó bèn quyết định đánh Tĩnh Hải quân lần thứ hai.Lưu Nghiễm cho rằng Dương Đình Nghệ qua đời thì Tĩnh Hải quân không còn tướng giỏi, bèn phong cho con trai thứ 9 làLưu Hoằng Tháolàm "Bình Hải tướng quân" và "Giao Chỉ vương", thống lĩnh thủy quân.
Diễn Biến
Ngô Quyềnbao vây và giết chết Kiều Công Tiễn
Năm 938, sau khi tập hợp các hào kiệt trong nước đứng về phía mình,Ngô Quyềnmang quân từ Ái châu ra bắc đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn bị cô lập không chống nổi, trông chờ viện binh của Nam Hán.
Trong khi vua Nam Hán đang điều quân thìNgô Quyềnđã tiến rathành Đại La. Kiều Công Tiễn bị cô thế không đủ sức chống lại nên thành nhanh chóng bị hạ, Kiều Công Tiễn bị giết chết. Lúc đó quân Nam Hán vẫn chưa tiến vào tới biên giới.
Kế hoạch của quân Nam Hán
Vua Nam Hán cho con trai là Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem 2 vạn quân sang với danh nghĩa là cứu Công Tiễn. Lưu Nghiễm hỏi kế ở Sùng Văn hầu là Tiêu Ích nói:
Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến.
- Sùng Văn Hầu Tiêu Ích
Kế hoạch củaNgô Quyền
Vua Nam Hán đang muốn hành quân nhanh để đánh chiếm lại Tĩnh Hải quân, nên không nghe theo kế của Tiêu Ích, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền theosông Bạch Đằngmà vào. Lưu Nghiễm tự mình làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện.
Ngô Quyềnnghe tin Hoằng Tháo sắp đến, ông bảo với các tướng rằng:
Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.Ngô Quyềncho quân sĩ đóng cọc có bịt sắt nhọn xuống lòngsông Bạch Đằng. Khi thuỷ triều lên, bãi cọc không bị lộ.Ngô Quyềndự định nhử quân địch vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền địch mắc cạn mới giao chiến.

Kết Quả
Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử trận, Nghiễm kinh hoàng, đành "thương khóc thu nhặt quân còn lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư). Từ đónhà Nam Hánbỏ hẳn mộng xâm lược Tĩnh Hải quân. Lưu Cung cũng than rằng cái tên "Cung" của ông là xấu.
Xem thêm: Tổng Hợp Tất Cả Công Thức Tính Hiệu Suất Vật Lý 9 Theo Từng Chương
Năm 939,Ngô Quyềnlên ngôi vua, xưng làNgô Vương, lập ranhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội ngày nay).

Nguyên nhân thắng lợi
Chiến thuật quân sự củaNgô Quyềnrất độc đáo và đúng như nhận định củaLê Văn Hưu:"Mưu giỏi mà đánh cũng giỏi"hoặc"mưu tài đánh giỏi" như trong Đại Việt Sử ký Toàn thư. Tuy nhiên, theo các nhà quân sự, việc áp dụng chiến thuật lấy cọc nhọn đâm thuyền địch muốn thành công cần có sự kết hợp chặt chẽ với một số mưu mẹo khác.
Thứ nhất, phải dụ địch đến đúng bãi cọc đã đóng giăng bẫy khi thuỷ triều còn cao, bãi cọc chưa bị phát lộ.Thứ hai, phải nắm rất vững quy luật thủy triều theo từng giờ và tính toán thời điểm để khi thuyền quân địch tới bãi cọc rồi, thủy triều mới rút, có như vậy thuyền địch mới bị mắc cạn và bị cọc đâm.Chỉ khi có đủ hai điều kiện trên, mưu kế mới phát huy tác dụng. Nếu nước triều rút quá sớm so với dự định, bãi cọc sớm phát lộ, thuyền địch sẽ biết và tránh xa cảnh giác, như vậy mưu sự hỏng. Không những thế, rất có thể chính các thuyền phía quân mình sẽ bị vướng cọc, thành "gậy ông đập lưng ông".
Nếu nước triều rút quá muộn so với dự định, thuyền chiến của địch cứ thế vượt qua, không có trở ngại gì, coi như bãi cọc đóng xuống vô tác dụng. Đây chính là trường hợp mà các nhà quân sự Việt Nam đã ghi lại của trận Bạch Đằng, 981, quân Tống đã vượt qua bãi cọc để vào được đất liền mà không bị trở ngại (tuy nhiên sau đó vẫn bị mắc mưuLê Hoànvà đại bại).
Vì vậy, để mưu sự thành công, ngoài việc chuẩn bị cọc nhọn một cách bí mật và hoàn thành sớm, việc dụ địch đi theo đúng lộ trình mình muốn và đến vào thời điểm mình muốn mang ý nghĩa quyết định. Mưu sự thành công có thể quyết định toàn bộ cuộc chiến chỉ trong 1 buổi vàNgô Quyềnđã thành công bởi mưu kế độc đáo và tính toán, vận dụng chính xác quy luật của tự nhiên.
Người vận dụng lại mưu kế này làTrần Hưng Đạotrong trận Bạch Đằng, 1288 cũng biết cách kết hợp áp dụng chính xác như vậy nên lại lập đại công phá quân Nguyên. Đời sau nghe chuyện dùng cọc đâm thuyền địch có vẻ dễ dàng, nhưng khi áp dụng cụ thể mới thấy không hoàn toàn dễ dàng để có thắng lợi như sử sách đã ghi. Không phải ngẫu nhiên mà cảNgô QuyềnvàTrần Hưng Đạođều được xem là danh tướng trong lịch sử Việt Nam
Ý Nghĩa
Trận thắng lớn ởsông Bạch Đằngnăm 938 có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với lịch sử Việt Nam, nó đã giúp chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng có thể coi là trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh Bắc thuộc kéo dài sau 1117 năm (179 TCN - 938) mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của nó.
Hơn thế nữa, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, kẻ thù của dân tộc Việt là một đế quốc lớn mạnh bậc nhất ở phương Đông với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang lúc phát triển cao độ, nhất là dưới thời Hán, Đường. Tiếp tục công cuộc bành trướng của Tần Thủy Hoàng,nhà Hánđã chinh phục miền Bắc xứ Triều Tiên chiếm đất đai các bộ lạc dụ mục phía Bắc, mở rộng lãnh thổ về phía Trung Á, xâm lược các nước Hạ Lang, Điền ở Tây Nam. Đầu thế kỷ thứ 7,nhà Tùybành trướng mạnh về phía Đông, chinh phục Triều Tiên, Lưu Cầu (Đài Loan), Giao Châu, Lâm Ấp, Tây Đồ Quốc...,nhà Đườngmở rộng bành trướng về mọi phía, lập thành một đế chế bao la như Đường Thái Tông đã từng tuyên bố:"Ta đã chinh phục được hơn 200 vương quốc, dẹp yên bốn bề, bọn Di Man ở cõi xa cũng lần lượt về quy phục"(theo Đường thư).
Từ đầu công nguyên, dân số của đế chế Hán đã lên đến 57 triệu người. Thời gian đó, dân số của Việt Nam chỉ độ một triệu. Sau khi chiếm được Việt Nam, mưu đồ củanhà Hánkhông phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền quốc gia, bóc lột nhân dân, vơ vét của cả, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn dân tộc Việt, sát nhập đất đai vào Trung Quốc. Chính sách đồng hóa là một đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã được thực hiện từ thời Hán và đẩy mạnh tớinhà Đường. Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo.
Ngô Quyền- người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trênsông Bạch Đằngnăm 938 - trở thành vị vua có"công tái tạo, vua của các vua"theo như nhận định của Đại Việt Sử ký Toàn thư. Ông xứng đáng với danh hiệu là "vị tổ trung hưng" của dân tộc như nhà yêu nướcPhan Bội Châulần đầu tiên đã nêu lên trong Việt Nam quốc sử khảo.
Xem thêm: Soạn Bài Trợ Từ, Thán Từ, Thán Từ (Chi Tiết), Soạn Văn 8 Trợ Từ Thán Từ
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của văn hóa Thăng Long, kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, một kỷ nguyên rực rỡ của cácnhà Lý, Trần, Lê.